Kinh tế Ấn Độ - Cải cách
Giới thiệu
Năm 1991 là một năm mang tính bước ngoặt trong lịch sử kinh tế Ấn Độ. Có một sự thay đổi kiến tạo trong chính sách kinh tế của Ấn Độ (trong năm này).
Năm 1991, Ấn Độ bị khủng hoảng kinh tế lớn, không thể kiểm soát được, tình trạng ngày càng xấu đi; dẫn đến việc lạm phát giá cả các mặt hàng sử dụng hàng ngày ảnh hưởng nặng nề đến người dân.
Do dự trữ ngoại tệ giảm, khủng hoảng cán cân thanh toán là thách thức lớn đối với quốc gia này.
Lý do của cuộc khủng hoảng này là do xuất khẩu đã giảm từ lâu, kể từ năm 1980. Khi chúng ta nhập khẩu một số sản phẩm (như xăng dầu), chúng ta cần phải thanh toán bằng đô la, số tiền mà chúng ta kiếm được thông qua xuất khẩu sản phẩm của mình.
Mặt khác, thu nhập của chính phủ không đủ để giải quyết vấn đề; doanh thu mà Chính phủ tạo ra thông qua thuế không tương xứng.
Ấn Độ đã vay khoản vay trị giá 7 tỷ USD từ Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD), tức Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), với điều kiện tự do hóa chính sách kinh tế và mở cửa cho thương mại quốc tế ở Ấn Độ.
Tự do hóa
Giai đoạn từ cuối những năm 1980 đến nay chứng kiến những cải cách đáng kể. Các cải cách có thể được phân loại thành hai nhóm:
- Các biện pháp ổn định.
- Các chính sách cải cách cơ cấu.
Các biện pháp bình ổn có bản chất ngắn hạn và cố gắng kiểm soát tình hình khủng hoảng bằng cách duy trì đủ dự trữ ngoại hối.
Chính sách cải cách cơ cấu là những chính sách dài hạn nhằm cải thiện điều kiện kinh tế tổng thể bằng cách tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và xóa bỏ những cứng nhắc và những trở ngại hạn chế khác.
Theo chính sách tự do hóa năm 1991, đã có nhiều thay đổi trong lĩnh vực cấp phép và thủ tục, nhập khẩu công nghệ, nhập khẩu tư liệu sản xuất cùng với tỷ lệ đầu tư công hợp lý và gần như bảo vệ toàn bộ các ngành sản xuất trong nước khỏi cạnh tranh quốc tế thông qua các hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu. cũng như mức thuế quan cao.
Hệ thống cấp phép công nghiệp gần như bị bãi bỏ ngoại trừ một số ngành như thuốc lá, rượu, hóa chất độc hại, điện tử, hàng không vũ trụ, thuốc và dược phẩm và vật liệu nổ công nghiệp.
Các ngành công nghiệp cụ thể như thiết bị quốc phòng, sản xuất năng lượng nguyên tử và đường sắt được giữ riêng cho khu vực công.
Có một số ngành công nghiệp được chính phủ cho phép tự do ấn định giá sản phẩm của họ.
Lĩnh vực tài chính, bao gồm ngân hàng, hoạt động giao dịch chứng khoán và thị trường ngoại hối đã được Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (RBI) quản lý và kiểm soát, nhưng chính sách này đã mang lại sự thay đổi, trong đó, nhiều tổ chức tài chính đã được trao quyền tự do KHÔNG PHẢI TẤT CẢ, mà tự mình đưa ra một số quyết định tài chính lớn.
Nhiều nhà đầu tư tổ chức nước ngoài (FII) bao gồm chủ ngân hàng thương mại, quỹ hưu trí, quỹ tương hỗ, v.v. được phép đầu tư vào thị trường tài chính Ấn Độ.
Chính sách thuế và chính sách chi tiêu công được gọi chung là fiscal policy.
Thuế được phân thành hai phần - Thuế trực thu và Thuế gián thu.
Thuế trực thu là loại thuế thu vào thu nhập của các cá nhân cũng như các doanh nghiệp kinh doanh. Sau khi tự do hóa, tỷ trọng thuế trực thu đang giảm dần.
Thuế đánh vào hàng hóa và hàng hóa được gọi là thuế gián thu.
Thị trường ngoại hối cũng đã được cải cách và điều này giúp giải quyết khủng hoảng cán cân thanh toán.
Cải cách chính sách thương mại và đầu tư làm tăng khả năng cạnh tranh quốc tế của khu vực công nghiệp.
Để bảo vệ các sản phẩm và ngành công nghiệp trong nước, chính phủ đã từng áp đặt các hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu bằng cách giữ mức thuế rất cao. Chính sách này hiện cũng đã được cải cách.
Giấy phép nhập khẩu đã bị loại bỏ; tuy nhiên, nó vẫn hoạt động cho các ngành công nghiệp độc hại và nhạy cảm với môi trường.
Các hạn chế định lượng đã được bãi bỏ hoàn toàn từ tháng 4 năm 2001.
Thuế xuất khẩu cũng được xóa bỏ nhằm tăng vị thế cạnh tranh của hàng hóa Ấn Độ trên thị trường quốc tế.
Tư nhân hóa
Tư nhân hóa có nghĩa là mở ra cánh cửa của các lĩnh vực và ngành công nghiệp đã từng được bảo tồn cho chính phủ. Điều này cũng bao gồm việc bán các doanh nghiệp thuộc sở hữu của chính phủ cho các công ty tư nhân.
Các công ty chính phủ chuyển đổi thành công ty tư nhân bằng cách -
Chính phủ rút khỏi quyền sở hữu và quản lý, hoặc,
Bán các công ty thuộc khu vực công cho các công ty tư nhân.
Bán một phần vốn cổ phần của các doanh nghiệp chính phủ cho công chúng được gọi là Disinvestment.
Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả của một số ngành công nghiệp thuộc khu vực công, Chính phủ đã trao cho họ quyền tự chủ quyết định về mặt quản lý. Và, một số ngành được đánh giá cao đã được trao chứng nhậnMaharatnas, Navratnasvà Miniratnas.
Maharatnas bao gồm Indian Oil Corporation Limited và Steel Authority of India Limited.
Navratnas bao gồm Hindustan Aeronautics Limited và Mahanagar Telephone Nigam Limited.
Miniratnas bao gồm Bharat Sanchar Nigam Limited, Cơ quan Sân bay Ấn Độ, và Tập đoàn Du lịch và Dịch vụ Đường sắt Ấn Độ.
Toàn cầu hóa
Toàn cầu hóa là một hiện tượng phức tạp, là kết quả của sự hội nhập của nền kinh tế thế giới và sự phụ thuộc lẫn nhau của thương mại.
Do sự phát triển tiên tiến của công nghệ thông tin, nhiều dịch vụ hiện nay đang được thuê ngoài. Ví dụ -
- Gia công quy trình kinh doanh (BPO)
- Quy trình kinh doanh dựa trên giọng nói
- Lưu trữ hồ sơ
- Dịch vụ ngân hàng
- Accountancy
- Biên tập phim
- Ghi âm nhạc
- Viết sách
- Nghiên cứu và chỉnh sửa, v.v.
Toàn cầu hóa đã giúp thúc đẩy nhiều công ty Ấn Độ trên thị trường quốc tế. Nó dẫn đến việc các công ty Ấn Độ mở chi nhánh của họ ở các quốc gia khác nhau trên thế giới. Ví dụ, ONGC Videsh hoạt động tại 16 quốc gia, Tata Steel hoạt động tại 26 quốc gia, HCL tại 31 quốc gia.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
WTO được thành lập năm 1995.
Tiền thân là GATT (Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan) được thành lập năm 1948, có 23 nước thành viên tham gia.
Đó là một hiệp định thương mại đa phương được thành lập với mục tiêu tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả các quốc gia trên thị trường quốc tế về giao dịch.
Hiệp định WTO bao gồm hàng hóa cũng như dịch vụ và nhằm tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người bằng cách loại bỏ các mức thuế quan khác nhau (ở các quốc gia khác nhau) và các hàng rào phi thuế quan.
Là một thành viên của WTO, Ấn Độ cũng tuân theo các hiệp định của WTO.
Sau thời kỳ cải cách
Sau cải cách năm 1991, ngành nông nghiệp có sự suy giảm; khu vực công nghiệp có sự biến động và khu vực dịch vụ có sự tăng trưởng đáng kể.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư tổ chức nước ngoài (FII) đã tăng từ khoảng 100 triệu USD (giai đoạn 1990-91) lên 467 USD (tỷ USD trong giai đoạn 2012-13).
Mặc dù theo chính sách toàn cầu hóa, thị trường quốc tế mở cửa cho tất cả mọi người và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người; tuy nhiên, một số nhà kinh tế cho rằng nó có lợi hơn cho các nước phát triển.
Các ngành công nghiệp địa phương của các nước đang phát triển cũng đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề, khi họ phải cạnh tranh với các công ty nước ngoài.
Các nước đang phát triển vẫn chưa tiếp cận được thị trường nội địa của các nước phát triển.
Chính phủ Ấn Độ kể từ năm 1991, đặt ra mục tiêu không đầu tư hàng năm; trong năm 2013-14, mục tiêu là khoảng Rs. 56.000 Crores và nó đã đạt được mục tiêu chỉ khoảng Rs. 26.000 Crores.
Siricilla Tragedy - Cải cách ngành điện đã làm tăng giá điện, tác động xấu đến người lao động làm việc, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp nhỏ.
Ví dụ, Siricilla , một thị trấn ở Telangana được biết đến rộng rãi với ngành công nghiệp dệt khung dệt điện. Ở đây, tiền lương của người lao động gắn liền với số lượng sản xuất. Trong những tình huống như vậy, việc cắt điện sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tiền lương của người lao động. Điều này thường dẫn đến việc công nhân tự sát.