Thống kê - Kiểm tra giả thuyết
Giả thuyết thống kê là một giả định về một tập hợp có thể đúng hoặc có thể không đúng. Kiểm định giả thuyết là một tập hợp các thủ tục chính thức được các nhà thống kê sử dụng để chấp nhận hoặc bác bỏ các giả thuyết thống kê. Giả thuyết thống kê có hai loại:
Null hypothesis, ${H_0}$ - đại diện cho một giả thuyết về cơ sở may rủi.
Alternative hypothesis, ${H_a}$ - đại diện cho một giả thuyết về các quan sát bị ảnh hưởng bởi một số nguyên nhân không ngẫu nhiên.
Thí dụ
giả sử chúng tôi muốn kiểm tra xem một đồng xu có công bằng và cân bằng hay không. Một giả thuyết vô hiệu có thể nói rằng một nửa lần lộn sẽ là của đầu và một nửa ý chí của đuôi trong khi giả thuyết thay thế có thể nói rằng lần lộn của đầu và đuôi có thể rất khác nhau.
Ví dụ nếu chúng ta lật đồng xu 50 lần, trong đó kết quả là 40 Đầu và 10 Đuôi. Sử dụng kết quả, chúng ta cần bác bỏ giả thuyết vô hiệu và dựa trên bằng chứng sẽ kết luận rằng đồng tiền có lẽ không công bằng và cân bằng.
Kiểm tra giả thuyết
Theo quy trình chính thức được nhà thống kê sử dụng để xác định xem có bác bỏ giả thuyết không, dựa trên dữ liệu mẫu. Quá trình này được gọi là kiểm tra giả thuyết và bao gồm bốn bước sau:
State the hypotheses- Bước này liên quan đến việc nêu cả giả thuyết rỗng và giả thuyết thay thế. Các giả thuyết nên được phát biểu theo cách mà chúng loại trừ lẫn nhau. Nếu một trong những đúng thì khác phải là sai.
Formulate an analysis plan- Kế hoạch phân tích là mô tả cách sử dụng dữ liệu mẫu để đánh giá giả thuyết vô hiệu. Quá trình đánh giá tập trung vào một thống kê thử nghiệm duy nhất.
Analyze sample data - Tìm giá trị của thống kê thử nghiệm (sử dụng các thuộc tính như điểm trung bình, tỷ lệ, thống kê t, điểm z, v.v.) được nêu trong kế hoạch phân tích.
Interpret results- Áp dụng các quyết định đã nêu trong kế hoạch phân tích. Nếu giá trị của thống kê kiểm định rất khó có thể dựa trên giả thuyết rỗng, thì bác bỏ giả thuyết rỗng.