Có những hồ sơ về dấu vân tay đã được lấy từ nhiều thế kỷ trước, mặc dù chúng gần như không tinh vi như ngày nay. Người Babylon cổ đại ấn các đầu ngón tay vào đất sét để ghi lại các giao dịch kinh doanh. Người Trung Quốc sử dụng dấu ngón tay trên giấy để kinh doanh và giúp nhận dạng con cái của họ.
Tuy nhiên, dấu vân tay không được sử dụng như một phương pháp để xác định tội phạm cho đến thế kỷ 19. Năm 1858, một người Anh tên là Ngài William Herschel đang làm Chánh án của quận Hooghly ở Jungipoor, Ấn Độ. Để giảm gian lận, ông đã yêu cầu cư dân ghi lại dấu vân tay của họ khi ký các giấy tờ kinh doanh.
Vài năm sau, bác sĩ người Scotland Henry Faulds đang làm việc tại Nhật Bản thì phát hiện ra dấu vân tay do các nghệ sĩ để lại trên những mảnh đất sét cổ. Phát hiện này đã thôi thúc anh bắt đầu điều tra về dấu vân tay. Năm 1880, Faulds viết thư cho anh họ của mình, nhà tự nhiên học nổi tiếng Charles Darwin, và nhờ giúp đỡ trong việc phát triển hệ thống phân loại dấu vân tay. Darwin từ chối, nhưng chuyển bức thư cho người anh họ của mình, Ngài Francis Galton.
Galton là một nhà ưu sinh , người đã thu thập các phép đo về mọi người trên khắp thế giới để xác định xem các đặc điểm được di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác như thế nào. Ông bắt đầu thu thập dấu vân tay và cuối cùng thu thập khoảng 8.000 mẫu khác nhau để phân tích. Năm 1892, ông xuất bản cuốn sách "Dấu vân tay", trong đó ông phác thảo một hệ thống phân loại dấu vân tay - hệ thống đầu tiên tồn tại. Hệ thống này dựa trên các mẫu hình vòm, vòng lặp và đường ngoằn ngoèo.
Trong khi đó, một quan chức thực thi pháp luật Pháp tên là Alphonse Bertillon đang phát triển hệ thống xác định tội phạm của riêng mình. Bertillonage (hay nhân trắc học) là một phương pháp đo đầu, chân và các bộ phận cơ thể để phân biệt khác. Những "bức chân dung nói" này cho phép cảnh sát ở các địa điểm khác nhau bắt giữ những kẻ tình nghi dựa trên những đặc điểm thể chất cụ thể. Cảnh sát Ấn Độ thuộc Anh đã áp dụng hệ thống này vào những năm 1890.
Cùng lúc đó, Juan Vucetich, một cảnh sát ở Buenos Aires, Argentina, đang phát triển một hệ thống lấy dấu vân tay của riêng mình. Năm 1892, Vucetich được gọi đến để hỗ trợ điều tra hai cậu bé bị sát hại ở Necochea, một ngôi làng gần Buenos Aires. Ban đầu, mối nghi ngờ đổ dồn vào một người đàn ông tên Velasquez, tình yêu của mẹ cậu bé, Francisca Rojas. Nhưng khi Vucetich so sánh dấu vân tay được tìm thấy tại hiện trường vụ giết người với dấu vân tay của cả Velasquez và Rojas, chúng hoàn toàn trùng khớp với dấu vân tay của Rojas. Cô đã thú nhận hành vi phạm tội. Đây là lần đầu tiên dấu vân tay được sử dụng trong một cuộc điều tra tội phạm. Vucetich gọi là phương pháp soi cầu so sánh hệ thống của mình . Nó vẫn được sử dụng ở nhiều nước nói tiếng Tây Ban Nha.
Sir Edward Henry, ủy viên của Cảnh sát Thủ đô London, sớm quan tâm đến việc sử dụng dấu vân tay để truy bắt tội phạm. Năm 1896, ông bổ sung vào kỹ thuật của Galton, tạo ra hệ thống phân loại của riêng mình dựa trên hướng, dòng chảy, kiểu mẫu và các đặc điểm khác của các gờ ma sát trong dấu vân tay. Giám khảo sẽ biến những đặc điểm này thành các phương trình và phân loại để có thể phân biệt bản in của người này với bản in của người khác. Hệ thống phân loại Henry đã thay thế hệ thống Bertillonage làm phương pháp phân loại dấu vân tay chính trên hầu hết thế giới.
Năm 1901, Scotland Yard thành lập Cục Dấu vân tay đầu tiên của mình. Năm sau, dấu vân tay lần đầu tiên được đưa ra làm bằng chứng tại các tòa án Anh. Năm 1903, các nhà tù ở bang New York đã thông qua việc sử dụng dấu vân tay, sau đó là FBI .
Nhưng việc lấy dấu vân tay đã thay đổi như thế nào kể từ thế kỷ 19? Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu về các kỹ thuật lấy dấu vân tay hiện đại.