Trong tháng kể từ khi Tổng thống Nga Vladimir Putin ra lệnh cho quân đội của mình xâm lược Ukraine , thế giới đã theo dõi sự khủng khiếp được chiếu trực tiếp trên truyền hình và phương tiện truyền thông xã hội. Những hình ảnh đã được đồ họa và gây sốc, thể hiện sự tồi tệ tuyệt đối của nhân loại.
Nhưng những bức ảnh cũng cho thấy một khía cạnh khác của chiến tranh. Đó là hình ảnh của những người Ukraine dũng cảm ở lại chiến đấu cho đất nước của họ. Và những bức ảnh chụp những người phụ nữ và trẻ em đã đi bộ hàng dặm trong vòng tay của vô số tình nguyện viên chờ đợi để mặc quần áo, cho ăn và cất nhà cho họ. Những bức ảnh này nêu bật những gì tốt đẹp nhất của con người .
Cả hai phía của câu chuyện này đều được chụp ảnh bởi những người đàn ông và phụ nữ chỉ đơn giản là làm công việc của họ - nhiếp ảnh gia chiến tranh và phóng viên. Họ đang dũng cảm ghi lại những bất công của chiến tranh, giống như chín nhiếp ảnh gia này đã làm trước họ, bắt đầu với một người đàn ông được coi là cha đẻ của nghề phóng viên ảnh về cách anh ta ghi lại cuộc Nội chiến Hoa Kỳ.
Ghi chú của người biên tập: Những hình ảnh tiếp theo được chụp trong thời chiến và có thể quá đồ họa đối với một số độc giả. Ngoài ra, để phù hợp với tầm nhìn của nhiếp ảnh gia, đã không cắt ảnh theo kích thước trang web thông thường của chúng tôi.
- Mathew Brady (1822-1896)
- Ernest Brooks (1876-1957)
- Margaret White-Bourke (1904-1971)
- Robert Capa (1913-1954)
- Dickey Chapelle (1918-1965)
- Kevin Carter (1960-1994)
- Catherine Leroy (1944-2006)
- Philip Jones Griffith (1936-2008)
- Chris Hondros (1970-2011)
Mathew Brady (1822-1896)
Mathew Brady là một nhiếp ảnh gia thành danh trước Nội chiến , nhưng ông được coi là nhiếp ảnh gia đầu tiên ghi lại hoàn toàn cuộc chiến bằng ảnh. Tổng thống Abraham Lincoln , người đã chụp ảnh Brady nhiều lần, đã cho phép ông quay cảnh chiến tranh vào năm 1861. Brady đã cử một nhân viên lên tới 20 nhiếp ảnh gia đến các chiến trường dưới sự chỉ đạo của ông. Những bức ảnh mà những người đàn ông này gửi lại, bao gồm nhiều binh sĩ Mỹ đã chết trên chiến trường Antietam, có tác động lớn đến cách mọi người nhìn nhận về Nội chiến. Ngày nay hình ảnh của Brady là một phần của Cơ quan Lưu trữ Quốc gia.
Ernest Brooks (1876-1957)
Ernest Brooks nhập ngũ trong Lực lượng Dự bị Tình nguyện của Hải quân Hoàng gia sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra. Ban đầu, ông bắt đầu chụp ảnh chuẩn bị cho chiến dịch quân sự Gallipoli, nhưng sau đó nhanh chóng được bổ nhiệm làm nhiếp ảnh gia chính thức đầu tiên về chiến tranh của Anh. Brooks nhận được cấp bậc Thiếu úy danh dự và được cử đi chụp ảnh Mặt trận phía Tây vào năm 1916.
Nhiều hình ảnh của anh ấy thành thạo về kỹ thuật và tạo dáng hơn là thẳng thắn. Và những bức ảnh nổi tiếng nhất của ông là những bức ảnh mà ông sử dụng bóng để tối đa hóa sự kịch tính và minh họa cho sự ẩn danh của cuộc chiến. Bảo tàng Chiến tranh Hoàng gia của London và Thư viện Quốc gia Scotland lưu giữ nhiều hình ảnh của ông ngày nay.
Margaret White-Bourke (1904-1971)
Margaret White-Bourke đã có nhiều lần đầu tiên trong sự nghiệp phóng viên chiến trường. Bà là nhiếp ảnh gia nước ngoài đầu tiên chụp ảnh ngành công nghiệp ở Liên Xô vào cuối những năm 1920. Cô là một trong bốn nhiếp ảnh gia đầu tiên được tạp chí Life thuê vào giữa những năm 1930. Cô cũng đã chụp nhiều bức ảnh về Cuộc suy thoái và Bụi đời , nhưng khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, White-Bourke đã đến châu Âu. Ở đó, bà là nhiếp ảnh gia phương Tây duy nhất chụp được hình ảnh Đức xâm lược Moscow năm 1941 và bay cùng các phi hành đoàn trong các nhiệm vụ ném bom vào năm 1942. Nhưng những hình ảnh đau khổ của bà về việc giải phóng các trại tập trung của Đức vẫn để lại tác động không thể xóa nhòa cho những ai nhìn thấy chúng.
Robert Capa (1913-1954)
Thật khó để nói thành lời về tác động của Robert Capa đối với việc chụp ảnh chiến tranh. Bức ảnh nổi tiếng nhất của ông, " Cái chết của một người lính trung thành " từ năm 1936, đã mang về cho ông danh hiệu "nhiếp ảnh gia chiến tranh vĩ đại nhất thế giới" do tạp chí Picture Post của Anh bầu chọn khi ông mới 25 tuổi. Bức ảnh, được chụp vào đầu Tây Ban Nha. Civil War, hiển thị giây chính xác một viên đạn bắn trúng một người lính.
Những bức ảnh đặc biệt mà ông chụp khi đi bão trên Bãi biển Omaha cùng với những người lính Mỹ trong cuộc xâm lược D-Day ngày 6 tháng 6 năm 1944, là một biểu tượng. Capa là nhiếp ảnh gia duy nhất đồng hành cùng các lực lượng Hoa Kỳ trên làn sóng đầu tiên đó, và những hình ảnh của ông được coi là một bản ghi lịch sử về cuộc xâm lược của Đồng minh vào nước Pháp do Đức chiếm đóng. Bạn có thể đọc mô tả về ngày hôm đó của Capa bằng lời của anh ấy tại đây .
Dickey Chapelle (1918-1965)
Dickey Chapelle lớn lên ở Wisconsin và mục tiêu của cô là trở thành phóng viên và nhiếp ảnh gia - công việc mà cô đã trở thành. Trong Thế chiến thứ hai, phụ nữ không được phép vào các khu vực chiến đấu, nhưng điều đó không ngăn cản Chapelle. Khi được giao nhiệm vụ cho tạp chí lớn đầu tiên của mình ở Nhà hát Thái Bình Dương, cô đã thuyết phục những người lính đưa cô đến tiền tuyến ở Okinawa, nơi cô đã chụp ảnh một số trận chiến cuối cùng ở đó. Chapelle tiếp tục đi khắp Trung Đông và Ấn Độ để chụp ảnh các nhóm nổi dậy cộng sản ở Algeria và Hungary. Cô đã ở Cuba khi Fidel Castro tiếp quản Havana. Cô đã gắn bó với Thủy quân lục chiến ở Lebanon và một lần nữa ở Việt Nam.
Luôn mong muốn được bắn, cô là phụ nữ đầu tiên được Lầu Năm Góc chấp thuận nhảy dù cùng quân đội Việt Nam. Chính tại đó, vào năm 1965, Chapelle đã bị trúng mìn khi đi tuần tra, khiến cô trở thành phóng viên chiến trường đầu tiên thiệt mạng trong Chiến tranh Việt Nam. Năm 2016, Tư lệnh Thủy quân Lục chiến, Tướng Robert Neller đã trao cho Chapelle danh hiệu Thủy quân lục chiến danh dự . Ngày nay, hơn 40.000 hình ảnh và chữ cái của bà được lưu giữ trong Hiệp hội Lịch sử Wisconsin .
Kevin Carter (1960-1994)
Nhiếp ảnh gia Nam Phi Kevin Carter là một trong bốn thành viên của " Bang Bang Club ", một nhóm phóng viên ảnh - Carter, Greg Marinovich, Ken Oosterbroek và João Silva - người nổi tiếng khi ghi lại cảnh bạo lực khi Nam Phi chuyển đổi khỏi chế độ phân biệt chủng tộc từ năm 1990 đến 1994 Carter cũng là người đầu tiên chụp ảnh cuộc hành quyết công khai một phụ nữ Nam Phi da đen vào năm 1980 bởi các nhóm chống phân biệt chủng tộc.
Nhưng đó là hình ảnh đầy ám ảnh của anh ấy về một đứa trẻ Sudan nhỏ tuổi mà Carter sẽ mãi mãi được ghi nhớ. Anh ấy đã ở Sudan để chụp ảnh cuộc khủng hoảng nhân đạo và nạn đói do nội chiến tàn phá đất nước. Đó là về một đứa trẻ chết đói, gục ngã khi trên đường đến trung tâm nuôi dưỡng. Sau lưng đứa trẻ là một con kền kền xuất hiện rình rập chúng. Bức ảnh đã mang về cho anh giải thưởng Pulitzer . Chỉ ba tháng sau khi bức ảnh được công bố - và một tuần sau khi nhận giải Pulitzer - Carter đã tự sát. Bức ảnh vẫn là một hình ảnh khó quên về nạn đói và chiến tranh.
Catherine Leroy (1944-2006)
Giống như Dickey Chapelle, Catherine Leroy là một nhiếp ảnh gia chiến tranh táo bạo ở Việt Nam; hai người là nữ nhiếp ảnh gia duy nhất trong Chiến tranh Việt Nam. Leroy dành phần lớn thời gian của mình để ghi lại hình ảnh những người đàn ông tham gia chiến đấu, sống và tuần tra với Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong ba năm cô làm nhiếp ảnh gia tự do ở đó. Cô đã được công nhận bởi Associated Press và United Press International và nhanh chóng tạo được danh tiếng nhờ những hình ảnh mạnh mẽ của mình. Leroy cũng là một vận động viên nhảy dù thành công và đã thực hiện một số lần nhảy với Thủy quân lục chiến, trong đó có một lần nhảy với Lữ đoàn Dù 173 trong Chiến dịch Junction City, cuộc tấn công bằng dù lớn duy nhất của cuộc chiến. Lực lượng Bắc Việt đã giam giữ cô làm tù binh trong cuộc Tổng tấn công và cô bị thương nặng vào năm 1968. Sau khi Sài Gòn thất thủ năm 1975, Chapelle tiếp tục chụp ảnh các cuộc xung đột trên thế giới, bao gồm nội chiến ở Lebanon và cuộc bao vây Tây Beirut của Israel năm 1982.
Philip Jones Griffith (1936-2008)
Sau khi theo học ngành dược ở Liverpool, Philip Jones Griffith người xứ Wales đã trở thành nhiếp ảnh gia tự do toàn thời gian vào năm 1961. Lần đầu tiên anh đưa tin về Chiến tranh Algeria và sau đó là Trung Phi, nơi anh chuyển đến Việt Nam. Anh ấy đã dành năm năm ở đó để chụp ảnh cuộc chiến trong rừng. Nhưng công việc của ông đã đưa ông đến hơn 120 quốc gia trong suốt cuộc đời của mình; ông đã ghi lại cuộc xung đột ở các khu vực bao gồm Bắc và Trung Phi, Israel, Campuchia và Iraq. Ông có lẽ được biết đến nhiều nhất với cuốn sách “ Vietnam Inc. ” được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1971, cuốn sách không chỉ miêu tả sự chiến đấu, bạo lực và tàn phá của cuộc chiến đó mà còn cả cuộc sống đời thường ở Việt Nam. Những hình ảnh đã giúp xoay chuyển dư luận về Chiến tranh Việt Nam, và về cơ bản đã giúp kết thúc nó hoàn toàn.
Chris Hondros (1970-2011)
Chris Hondros là một nhiếp ảnh gia chiến tranh người Mỹ, người đã hai lần lọt vào vòng chung kết cho giải thưởng Pulitzer nhờ những hình ảnh xuất sắc của mình. Anh là nhân viên nhiếp ảnh cho Getty Images và đã chụp hầu hết các khu vực xung đột lớn trên thế giới vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, bao gồm các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9, các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan, cuộc nội chiến ở Liberia và Mùa xuân Ả Rập. ở Ai Cập và Libya. Hình ảnh của ông đã được đăng trên các trang nhất của The New York Times, The Washington Post và Los Angeles Times. Hondros bị giết vào năm 2011 cùng với phóng viên ảnh Tim Hetherington khi họ đang đưa tin về cuộc nổi dậy chống lại Moammar Gadhafi ở Libya.
Mặc dù nhiếp ảnh chắc chắn đã thay đổi kể từ những hình ảnh đầu tiên được chụp vào những năm 1800, nhưng các nhiếp ảnh gia sử dụng phương tiện truyền thông để chiếu ánh sáng vào sự tàn khốc của chiến tranh thì không. Những người đàn ông và phụ nữ này, những người dũng cảm trước sự tàn phá của chiến tranh, chỉ được trang bị một chiếc máy ảnh, vẫn không sợ hãi và khắc kỷ, và ngày nay họ cần phổ biến những câu chuyện có thật về chiến tranh hơn bao giờ hết.