
Sử dụng dơi để mang bom cháy vào lãnh thổ của kẻ thù không phải là một ý tưởng hay và đó không phải là ý tưởng tồi đầu tiên trong lịch sử của máy bay không người lái ( UAV ). Trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ, một nhà phát minh đã được cấp bằng sáng chế cho một quả bóng bay không người lái mang chất nổ có thể thả xuống sau khi cơ chế cầu chì trì hoãn thời gian kích hoạt chiếc giỏ lật úp bên trong. Các luồng không khí và kiểu thời tiết khiến việc ước tính thời gian đặt cầu chì rất khó khăn, và khinh khí cầu không bao giờ được triển khai thành công.
Đến năm 1883, bức ảnh trên không đầu tiên được chụp bằng diều, máy ảnh và một sợi dây rất dài gắn vào nút nhả cửa trập của máy ảnh. Năm 1898, công nghệ này được đưa vào sử dụng trong Chiến tranh Tây Ban Nha - Mỹ, cho ra đời những bức ảnh trinh sát trên không quân sự đầu tiên.
Chiến tranh thế giới thứ nhất đã chứng kiến sự phát triển và thử nghiệm của nhiều loại máy bay không người lái điều khiển bằng sóng vô tuyến, nhưng không chiếc nào xuất hiện trong giai đoạn thử nghiệm để kịp sử dụng trước khi chiến tranh kết thúc.
Vào những năm 1930, Hải quân Hoàng gia Anh đã phát triển một loại UAV nguyên thủy, điều khiển bằng sóng vô tuyến: Queen Bee . Queen Bee có thể được hạ cánh để tái sử dụng trong tương lai và có thể đạt tốc độ 100 dặm / giờ (160 km / h). Mặc dù vậy, thay vì được sử dụng một cách công kích, Queen Bee chủ yếu được sử dụng làm mục tiêu trên không cho các phi công Anh.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đức Quốc xã đã phát triển một chiếc UAV được sử dụng để chống lại các mục tiêu phi quân sự. Revenge Weapon 1 , một loại bom bay không người lái hay còn được gọi là V-1, có thể đạt tốc độ gần 500 dặm / giờ (804 km / h), mang theo 2.000 pound (907 kg) chất nổ và có thể bay xa 150 dặm (241 km) trước đó giải phóng vũ khí của nó. Sải cánh của nó dài khoảng 20 feet (6 m) và dài gần 25 feet (7,6 m). Tại các thị trấn và thành phố trên khắp nước Anh, V-1 đã gây ra hơn 900 thường dân thiệt mạng và 35.000 dân thường bị thương [nguồn: NOVA ].
Trong những năm 1960 và 70, Hoa Kỳ đã thực hiện hơn 34.000 chuyến bay giám sát bằng AQM-34 Ryan Firebee , một UAV phóng từ một máy bay chủ và được điều khiển bởi các nhà khai thác bên trong máy bay đó. Mỹ cũng sử dụng các UAV có tên Lightning Bugs được thả từ các máy bay C-130 trên không cho các nhiệm vụ ở Trung Quốc và Việt Nam. Các kỹ sư từ nhà sản xuất đã vận hành máy bay bằng một phím điều khiển.
Vào cuối những năm 1970 và 80, Israel đã phát triển Scout và Pioneer , thể hiện sự chuyển hướng sang kiểu máy bay lượn nhẹ hơn của UAV đang được sử dụng ngày nay. Scout được chú ý nhờ khả năng truyền video trực tiếp với tầm nhìn 360 độ về địa hình. Kích thước nhỏ của những chiếc UAV này khiến chúng không đắt để sản xuất và khó bị bắn hạ.
Mỹ mua lại các UAV Tiên phong từ Israel và sử dụng chúng trong Chiến tranh vùng Vịnh. Ít nhất một lần, binh sĩ Iraq đã cố gắng đầu hàng một trong những chiếc UAV khi nó bay trên đầu [nguồn: NOVA ]
Mặc dù công nghệ UAV chứng kiến sự phát triển lẻ tẻ trong suốt thế kỷ 20, nhưng phải đến khi máy bay không người lái Predator xuất hiện trên hiện trường, các phương tiện bay không người lái mới có được một vị trí lâu dài trong kho vũ khí. Để hiểu về Reaper, chúng ta sẽ biết một chút về người tiền nhiệm trực tiếp của nó, MQ-1 Predator. Chúng ta sẽ đọc về UAV mang tính bước ngoặt này tiếp theo.
Yom Kippur War
Người Israel đã có được Ryan Firebees từ Mỹ để sử dụng trong Chiến tranh Yom Kippur năm 1973. Các UAV đã được sử dụng thành công để thúc đẩy Ai Cập bắn toàn bộ kho vũ khí tên lửa phòng không của mình vào Firebees. Nhiệm vụ này đã được hoàn thành mà không có phi công Israel nào bị thương, những người đã sớm lao thẳng vào hệ thống phòng thủ đã cạn kiệt.