Trong một phiên tòa kéo dài hai tuần khơi dậy cuộc tranh luận về luật tự vệ trên toàn quốc, bồi thẩm đoàn Wisconsin đã tuyên trắng án cho Kyle Rittenhouse vì đã bắn chết ba người, hai người tử vong, trong một cuộc biểu tình đòi công lý chủng tộc ở Kenosha.
Bồi thẩm đoàn Wisconsin tin rằng tuyên bố của Rittenhouse rằng anh ta lo sợ cho tính mạng của mình và hành động tự vệ sau khi anh ta lái xe khoảng 20 dặm từ nhà của mình ở Antioch, Illinois - nhặt một khẩu súng trường bán tự động kiểu AR-15 ở Kenosha - trong những gì anh ta tuyên bố là nỗ lực bảo vệ tài sản trong các cuộc biểu tình bạo lực. Thành phố 100.000 người ven hồ là hiện trường của các cuộc biểu tình hỗn loạn sau khi một cảnh sát da trắng bắn Jacob Blake, một người đàn ông da đen 29 tuổi, không có vũ khí, khiến anh ta bị liệt từ thắt lưng trở xuống.
Khi đưa ra phán quyết của mình, bồi thẩm đoàn Wisconsin đã quyết định rằng hành vi của Rittenhouse là chính đáng, mặc dù công tố lập luận rằng anh ta đã kích động cuộc chạm trán bạo lực và do đó, không thể tìm nơi nương tựa trong học thuyết tự vệ.
Như công tố viên Thomas Binger đã nói trong phần kết luận của mình : "Khi bị cáo kích động vụ việc này, anh ta mất quyền tự bào chữa. Bạn không thể đòi quyền tự vệ trước một nguy cơ mà bạn tạo ra."
Bồi thẩm đoàn Wisconsin không đồng ý và quyết định của họ có thể cho thấy một kết quả tương tự trong một vụ án cấp cao khác ở Georgia, nơi ba người đàn ông da trắng đang bị xét xử về cái chết của Ahmaud Arbery sau khi họ tuyên bố người đàn ông Da đen là nghi phạm trong một vụ cướp. . Giống như Rittenhouse, ba người đàn ông khẳng định họ đang hành động để tự vệ .
Các lập luận tự vệ thường được nêu ra trong các phiên tòa xét xử liên quan đến thiệt hại về nhân mạng. Sau đó, bồi thẩm đoàn được yêu cầu xác định xem hành vi của bị cáo có được biện minh bởi các nguyên tắc tự vệ hay không hay liệu người phạm tội có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người hay không .
Vấn đề phức tạp là mỗi bang có luật giết người và tự vệ riêng biệt. Một số bang quan sát học thuyết " giữ vững lập trường " gây tranh cãi , như ở Georgia - hoặc không, như ở Wisconsin - tiếp tục làm rõ thêm hiểu biết của công chúng về điều gì cấu thành việc sử dụng vũ lực chết người một cách thích hợp.
Ngũ hành tự vệ
Là một giáo sư luật hình sự , tôi dạy các sinh viên của mình rằng luật tự vệ ở Mỹ bắt nguồn từ một khái niệm quan trọng: Tính mạng con người là thiêng liêng, và luật pháp sẽ biện minh cho việc lấy đi mạng sống của con người chỉ trong những hoàn cảnh hạn hẹp.
Luật tự vệ cho rằng một người không phải là kẻ gây hấn có thể hợp lý trong việc sử dụng vũ lực chết người đối với kẻ thù khi anh ta tin rằng anh ta có nguy cơ tử vong hoặc thương tật nghiêm trọng sắp xảy ra. Đây là tiêu chuẩn mà mọi bang sử dụng để xác định khả năng tự vệ .
Để xác định xem tiêu chuẩn này có được đáp ứng hay không, luật xem xét năm khái niệm trọng tâm.
Thứ nhất, việc sử dụng vũ lực phải tương xứng với lực lượng mà bên xâm lược sử dụng. Ví dụ, nếu kẻ hung hãn đấm nhẹ vào tay nạn nhân, nạn nhân không thể dùng vũ lực để đáp trả. Nó không tương xứng.
Thứ hai, việc sử dụng quyền tự vệ được hạn chế đối với những tổn hại sắp xảy ra. Phải ngay lập tức đe dọa bởi kẻ xâm lược. Ví dụ, một người bị hành hung không thể rời khỏi hiện trường, hãy lên kế hoạch trả thù sau đó và tiến hành công lý một cách thận trọng bằng cách giết kẻ gây hấn ban đầu.
Thứ ba, đánh giá của người đó về việc liệu anh ta có nguy cơ tử vong hoặc thương tật nghiêm trọng hay không phải hợp lý, có nghĩa là một người được cho là "hợp lý" sẽ coi mối đe dọa là đủ nguy hiểm để khiến anh ta sợ chết hoặc thương tật cơ thể nghiêm trọng. Cái nhìn chủ quan của một người về nỗi sợ hãi này không đủ thỏa mãn tiêu chuẩn để tự vệ.
Thứ tư, luật pháp không cho phép kẻ xâm lược đầu tiên được hưởng lợi từ biện minh tự vệ. Chỉ những người có “bàn tay sạch” mới có thể hưởng lợi từ việc biện minh này và tránh được trách nhiệm hình sự.
Cuối cùng, một người có nhiệm vụ rút lui trước khi sử dụng vũ lực chết người, miễn là nó có thể được thực hiện một cách an toàn. Điều này khẳng định lại niềm tin của luật pháp vào sự thiêng liêng của cuộc sống con người và đảm bảo rằng vũ lực chết người là một lựa chọn cuối cùng.
Giữ vững lập trường của bạn
Sự gia tăng của các quốc gia áp dụng luật "giữ vững lập trường" trong những năm gần đây đã làm phức tạp việc phân tích quyền tự vệ liên quan đến nghĩa vụ rút lui.
Có từ thời kỳ đầu của luật Anh-Mỹ, nghĩa vụ rút lui đã phải tuân theo một ngoại lệ quan trọng được lịch sử gọi là " học thuyết lâu đài ": Một người không có nhiệm vụ rút lui trong nhà của mình. Nguyên tắc này xuất hiện từ câu châm ngôn ở thế kỷ 17 rằng "nhà của một người là lâu đài của anh ta."
"Học thuyết lâu đài" cho phép sử dụng vũ lực sát thương để tự vệ mà không áp đặt nhiệm vụ rút lui trong nhà. Theo thời gian, các bang bắt đầu mở rộng quy tắc không rút lui tới các không gian bên ngoài nhà.
Luật "Giữ vững lập trường" được quốc gia giám sát trong quá trình xét xử George Zimmerman, người được tuyên trắng án trong vụ xả súng giết chết Trayvon Martin năm 2012 .
Trong trường hợp đó, Martin, 17 tuổi, đang đi bộ về nhà sau khi mua Skittles từ một cửa hàng tiện lợi gần đó. Vào thời điểm đó, Zimmerman là một tình nguyện viên canh gác khu phố, người đã gọi cảnh sát sau khi phát hiện Martin. Mặc dù được người điều hành 911 yêu cầu ở lại trong xe của anh ta cho đến khi cảnh sát đến, nhưng thay vào đó, Zimmerman đã đối đầu với Martin.
Vẫn chưa rõ liệu một cuộc chiến xảy ra sau đó, ai là kẻ gây hấn và liệu Zimmerman có bị thương phù hợp với tuyên bố của anh ta về việc bị Martin đánh đập hay không. Zimmerman là người sống sót duy nhất; Martin, người không có vũ khí, đã chết vì vết thương do đạn bắn.
Ví dụ trong trường hợp của Zimmerman , theo luật tự vệ truyền thống, sự kết hợp giữa giới hạn của kẻ xâm lược đầu tiên và nghĩa vụ rút lui sẽ không cho phép Zimmerman đi theo Martin xung quanh và giết anh ta mà không phải chịu trách nhiệm về tội giết người.
Tuy nhiên, ở một tiểu bang độc lập như Florida, Zimmerman có quyền hợp pháp để tuần tra khu vực lân cận gần nhà Martin. Do đó, trong quá trình xét xử, tất cả những gì Zimmerman phải chứng minh là anh ta sợ hãi cái chết hoặc thương tật nghiêm trọng.
Ở Wisconsin, Rittenhouse cũng có thể đưa ra bằng chứng rằng anh ta sợ cái chết một cách hợp lý. "Tôi không làm gì sai," Rittenhouse làm chứng. "Tôi tự bảo vệ mình."
Bên công tố không thể chứng minh được rằng Rittenhouse không lo sợ về sự an toàn của mình một cách hợp lý. Điều này thể hiện một thanh cao đối với việc truy tố. Họ không thể đoán được nó.
Bài viết này được xuất bản lại từ The Conversation theo giấy phép Creative Commons. Bạn có thể tìm thấy bài báo gốc ở đây .
Ronald Sullivan là giáo sư luật tại Trường Luật Harvard. Ông là nhà lý luận hàng đầu trong các lĩnh vực luật hình sự, thủ tục hình sự, thực hành và kỹ thuật xét xử, đạo đức pháp lý và lý thuyết chủng tộc.