Lãi suất là chi phí vay tiền [nguồn: Investopedia.com ]. Một người đi vay trả lãi cho khả năng tiêu tiền ngay bây giờ, thay vì đợi cho đến khi anh ta tiết kiệm được số tiền tương tự [nguồn: Fed New York ]. Lãi suất được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm hàng năm của tổng số tiền đã vay, còn được gọi là nguyên tắc [nguồn: Investorwords.com ]. Ví dụ, nếu bạn vay 100 đô la với lãi suất năm phần trăm hàng năm, thì vào cuối năm bạn sẽ nợ 105 đô la.
Lãi suất không chỉ là hình phạt ngẫu nhiên khi vay tiền. Tiền lãi mà người cho vay nhận được là khoản tiền bồi thường cho việc chấp nhận rủi ro [nguồn: Investopedia.com ]. Với mọi khoản vay, có rủi ro là người đi vay sẽ không thể trả lại. Người đi vay có rủi ro vỡ nợ (không trả được nợ) càng cao thì lãi suất càng cao. Đó là lý do tại sao duy trì điểm tín dụng tốt sẽ giúp giảm lãi suất mà người cho vay đưa ra cho bạn.
Điều tốt đẹp là lãi suất hoạt động theo cả hai cách. Các ngân hàng, chính phủ và các tổ chức tài chính lớn khác cũng cần tiền mặt và họ sẵn sàng chi trả. Nếu bạn gửi tiền vào tài khoản tiết kiệm tại ngân hàng, ngân hàng sẽ trả cho bạn lãi suất cho việc sử dụng tạm thời số tiền đó. Chính phủ bán trái phiếu và các chứng khoán khác vì lý do tương tự. Trong trường hợp này, bạn là người cho vay và lãi suất là khoản bù đắp cho việc bạn tạm thời từ bỏ khả năng chi tiêu tiền mặt của mình. Thật không may, tài khoản tiết kiệm và trái phiếu do chính phủ phát hành trả lãi suất tương đối thấp vì rủi ro vỡ nợ gần bằng 0 [nguồn: Investopedia.com ].
Điểm tín dụng của người đi vay chỉ là một trong những yếu tố rủi ro ảnh hưởng đến lãi suất. Ví dụ, lãi suất cho tín dụng không có bảo đảm sẽ luôn cao hơn tín dụng có bảo đảm [nguồn: Investopedia.com ]. Tín dụng đảm bảo được đảm bảo bằng tài sản thế chấp. Thế chấp là ví dụ điển hình của tín dụng có bảo đảm, bởi vì nếu người đi vay không trả được nợ, ngân hàng luôn có thể lấy nhà. Thẻ tín dụng là tín dụng không có bảo đảm, bởi vì không có tài sản thế chấp hỗ trợ cho khoản vay, chỉ có điểm tín dụng của chủ thẻ. Lãi suất thế chấp thường thấp hơn nhiều so với lãi suất thẻ tín dụng vì chúng ít rủi ro hơn cho người cho vay.
Các khoản vay dài hạn cũng có lãi suất cao hơn so với các khoản vay ngắn hạn, bởi vì thời gian người đi vay phải trả lại càng nhiều, thì càng có nhiều thời gian để mục đích tài chính bị thối rữa, khiến người đi vay vỡ nợ [nguồn: Investopedia. com ].
Một yếu tố khác khiến các khoản vay dài hạn kém hấp dẫn hơn đối với người cho vay - và do đó làm tăng lãi suất dài hạn - là lạm phát [nguồn: Investopedia.com ]. Trong một nền kinh tế lành mạnh, lạm phát hầu như luôn tăng, có nghĩa là cùng một lượng đô la ngày nay có giá trị ít hơn 5 năm kể từ bây giờ. Người cho vay biết rằng người đi vay càng mất nhiều thời gian để trả lại khoản vay thì số tiền đó sẽ càng ít đi.
Đó là lý do tại sao lãi suất thực tế được tính như hai giá trị khác nhau: tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực . Lãi suất danh nghĩa là lãi suất do tổ chức cho vay quy định [nguồn: Investorwords.com ]. Tỷ giá thực là tỷ giá danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát [nguồn: Investorwords.com ]. Ví dụ, nếu bạn thế chấp với lãi suất danh nghĩa là 10 phần trăm, nhưng tỷ lệ lạm phát hàng năm là bốn phần trăm, thì ngân hàng chỉ thực sự thu được sáu phần trăm cho khoản vay.
Nhưng có lẽ lãi suất quan trọng nhất, và chắc chắn được nhắc đến nhiều nhất là lãi suất do Cục Dự trữ Liên bang đặt ra, mà chúng ta sẽ xem xét tiếp theo.