Lịch sử tài chính chiến dịch ở Hoa Kỳ

Nov 07 2007
Lịch sử tài chính chiến dịch ở Hoa Kỳ bắt nguồn từ Andrew Jackson vào năm 1828. Tìm hiểu thêm về lịch sử tài chính chiến dịch ở Hoa Kỳ.

Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tiền bạc và chính trị ở Hoa Kỳ kể từ khi đất nước bắt đầu tổ chức bầu cử. Vào cuối những năm 1700, chỉ những chủ đất là nam giới da trắng trên 21 tuổi mới được phép bỏ phiếu. Điều này có nghĩa là bạn phải có một số tiền để có tiếng nói của mình. Đến năm 1828, các bang có quyền trao quyền biểu quyết, và quyền sở hữu đất phần lớn đã bị bãi bỏ. Bản thân các cuộc bầu cử thường đầy rẫy tham nhũng, với một số cử tri được trả tiền ngay cho các lá phiếu.

Andrew Jackson là một trong những chính trị gia đầu tiên thực hiện một chiến dịch chính trị theo đường lối hiện đại. Trong cuộc bầu cử năm 1828, Jackson đã sử dụng một nhân viên vận động để giúp anh ta quyên góp tiền và bảo đảm phiếu bầu. Ông đã thành lập các ủy ban tổ chức các cuộc mít tinh và diễu hành để đưa thông điệp của mình đến với quần chúng. Kết quả là số cử tri đi bỏ phiếu đã tăng gấp đôi so với các cuộc bầu cử trước đó. Hai mươi năm sau, Abraham Lincoln sử dụng tài chính của mình để chi trả cho chiến dịch tranh cử của mình. Kế hoạch này gần như khiến anh ta bị phá sản , mặc dù anh ta đã kết hợp tiền của mình với sự đóng góp từ những người ủng hộ giàu có.

Sau Nội chiến, những người Mỹ giàu có đã thấy rõ rằng họ có rất nhiều lợi ích khi ủng hộ các chiến dịch của các chính trị gia. Các gia đình nổi tiếng như Astors và Vanderbilts có ảnh hưởng trong chính trị thời kỳ đầu không kém gì các chính trị gia. Luật tài chính chiến dịch liên bang đầu tiên cũng ra đời trong thời kỳ hậu Nội chiến này. Dự luật Chiếm đoạt tài sản của Hải quân, được thông qua năm 1867, cấm các nhân viên chính phủ thu hút sự đóng góp của các công nhân trong sân Hải quân .

Các tập đoàn nhanh chóng vào cuộc, khiến Teddy Roosevelt phải lên tiếng giải thích sau khi cảm thấy xấu hổ vì nguồn tài chính của chính công ty mình. Năm 1905, ông đề xuất với Quốc hội rằng tất cả các khoản đóng góp của công ty đều bị đặt ngoài vòng pháp luật. Biện pháp này đã vấp phải sự phản đối gay gắt, vì các quan chức được bầu cử tỏ ra nể phục những nhà tài trợ đã giúp họ lên nắm quyền. Vụ bắt 22 này sẽ được chứng minh là một vấn đề phổ biến đối với các chính trị gia ở Hoa Kỳ. Ngay sau đó, Đạo luật Tillman đã cấm các tập đoàn và ngân hàng có điều lệ quốc giatừ việc đóng góp tài chính trực tiếp. Cũng như nhiều nỗ lực cải cách, đạo luật này khó thực thi và đầy sơ hở. Trong những năm sau đó, nhiều giới hạn hơn đã được đặt ra đối với các khoản đóng góp và chi tiêu. Một lần nữa, những luật này hiếm khi được thực thi và dễ bị lung lay. Phải mất nhiều thập kỷ sau, bất kỳ luật cải cách tài chính chiến dịch có ý nghĩa nào mới được đưa ra.