
Ngày nay, quy trình tuyển dụng phi hành gia được sắp xếp hợp lý và hiệu quả. Nhưng khi NASA bắt đầu tuyển dụng những phi hành gia đầu tiên vào năm 1958, nó đang tiến vào một vùng lãnh thổ không xác định. Một trong những vấn đề lớn liên quan đến việc xác định vai trò của một phi hành gia. Trong các bản mô tả công việc ban đầu, các phi hành gia chỉ là những người quan sát, những người sẽ xem và ghi lại những gì đang xảy ra. Tuy nhiên, nó nhanh chóng trở nên rõ ràng rằng cần phải có sự tương tác của con người. Dựa trên điều này, NASA quyết định họ cần phi công quân sự.
Đây là một quyết định hợp lý khi xem xét sự tham gia của quân đội Mỹ với tên lửa và máy bay tên lửa sau Thế chiến thứ hai. Năm 1946, Lực lượng Không quân Lục quân Hoa Kỳ (tên gọi lúc bấy giờ) và Ủy ban Cố vấn Quốc gia về Hàng không Vũ trụ (NACA, tiền thân của NASA) đã đặt hàng với Bell Aircraft để sản xuất ba chiếc máy bay tên lửa. Cuối cùng, việc thử nghiệm những chiếc máy bay này đã được chuyển giao cho Không quân Hoa Kỳ, lực lượng đã trở thành một nhánh riêng của quân đội như một phần của Đạo luật An ninh Quốc gia năm 1947. Vào ngày 14 tháng 10 năm 1947, Chuck Yeager
, một phi công thử nghiệm của Lực lượng Không quân, đã phá vỡ rào cản âm thanh trong một máy bay tên lửa X-1 bay qua Victorville, California. Mặc dù bản thân Yeager không trở thành một phần của chương trình tàu vũ trụ có người lái Mercury, anh ấy đã phục vụ như một nguyên mẫu cho loại người của NASA. cảm thấy có thể thành công với tư cách là một phi hành gia.
Đến cuối năm 1958, NASA cuối cùng cũng đã đưa ra danh sách các tiêu chuẩn cho các phi hành gia trong chương trình Sao Thủy. Mỗi ứng cử viên phải:
- Ở trong một chi nhánh của quân đội
- Trẻ hơn 40 tuổi
- Ngắn hơn 5 feet, 11 inch (180,3 cm)
- Có bằng cử nhân hoặc tương đương về kỹ thuật
- Tốt nghiệp trường thí điểm thử nghiệm
- Có ít nhất 1.500 giờ bay
Ủy ban tuyển chọn phi hành gia của NASA đã sàng lọc hồ sơ của 508 quân nhân trong suốt tháng 1 năm 1959. Khoảng 100 người trong số này đã được liên hệ để phỏng vấn và kiểm tra viết, và 32 người nổi lên là ứng cử viên cuối cùng. Một đợt thử nghiệm y tế đã cắt giảm nhóm xuống còn 18 người và cuối cùng, 7 người được chọn làm phi hành gia đầu tiên. Ba chiếc thuộc Hải quân, ba chiếc thuộc Lực lượng Không quân và một chiếc thuộc Thủy quân lục chiến . Nhóm được gọi là "Original Seven" hoặc "Mercury 7" và bao gồm:
- M. Scott Carpenter ( Trung úy hải quân )
- L. Gordon Cooper Jr. (Cơ trưởng Không quân)
- John Glenn Jr. (Trung úy thủy quân lục chiến)
- Virgil "Gus" Grissom (Đội trưởng Lực lượng Không quân)
- Walter Schirra Jr. (Trung úy hải quân)
- Alan Shepard Jr. (Trung úy hải quân chỉ huy)
- Donald "Deke" Slayton (Đội trưởng Lực lượng Không quân)
Liên Xô bắt đầu một quá trình tuyển chọn tương tự vào tháng 8 năm 1959 cho nhóm phi hành gia đầu tiên của mình. Cơ quan Vũ trụ Liên Xô cũng chuyển sang sử dụng các phi công máy bay phản lực như một nguồn ứng cử viên, và các đội tuyển chọn đã đến thăm các căn cứ không quân trên khắp đất nước. Một lĩnh vực có khoảng 3.000 người được phỏng vấn đã được thu hẹp xuống còn 102 nhà du hành vũ trụ tiềm năng, những người đã trải qua các cuộc thử nghiệm rộng rãi và đôi khi khó khăn. Đến tháng 5 năm 1960, với việc hoàn thành cơ sở đào tạo tại Star City, Liên Xô công bố nhóm phi hành gia đầu tiên của mình:
- Yuri Gagarin
- Anatoly Kartashov *
- Andrian Nikolayev
- Pavel Popovich
- Gherman Titov
- Valentin Varlamov *
* Cuối cùng được thay thế bởi Valery Bykovsky và Grigori Nelyubov
Khi NASA biết thêm về ý nghĩa của việc trở thành một phi hành gia, các yêu cầu của NASA bắt đầu thay đổi. Tìm hiểu thêm về các nguyên tắc tuyển dụng ngày nay trên trang tiếp theo.